Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Những mảnh vụn ký ức 2: Cái nơi "nắng lửa mưa dầu"

 Quảng Trị 1962-1964
Cả nhà thu xếp ra Quảng Trị, hình như đã gần vô năm học mới.
Đi bằng xe lửa, thích vô cùng vì nghe nói lần này đi lâu lắm mới tới! Có chị ở tên Tâm đi theo.
  Tớ  nhìn cảnh hai bên đường suốt, cây cối, nhà cửa chạy qua khung cửa sổ xe như cuộn phim..nhưng có khi bỗng thấy tối om! thì ra xe lửa chui qua hầm! qua cũng mấy cái hầm như vậy thì tới Đà Nẵng, tàu nghỉ đêm lại đây, sáng hôm sau mới chạy tiếp ra Huế...(có lẽ vì lí do an ninh?)
Cả ngày trên xe nhưng tớ chả thấy mệt gì cả, cứ mong xe chạy hoài, chạy hoài đừng có ngưng..
 Rồi cũng tới nơi, người ta nói QT là tỉnh cuối rồi, gần sông Bến Hải địa đầu giới tuyến nên xe lửa đâu có đi tiếp nữa!
Quảng Trị 1967 (hình của Key West)


  Một căn nhà ba thuê trước đó trong một ngỏ nhỏ, hàng xóm rất thân thiện dễ thương, họ vui vẻ chào đón một gia đình xa lạ có giọng nói không giống họ tí nào!
 Mẹ lo đi xin chỗ học cho chị em tớ. Tớ may mắn được nhận vào lớp tư trường Nữ Tiểu học QT, còn chị Thuỳ thì họ nói lớp nhì hết chỗ rồi, chị phải học trường tư  của mấy Soeur, trường Térésa ở đầu ngõ.
 Trong xóm có nhiều con nít, có chị tên Hồng trước nhà cũng học cùng trường dẫn tớ đi học mỗi ngày.
Lớp mới này bạn nào cũng hiền lành không có ai ăn hiếp bắt nạt tớ cả, cô giáo cũng không có roi. Tớ an tâm học hành, chơi đùa thoải mái.
Riêng chị Thuỳ, học trường đạo nên phải đọc kinh, tuần nào cũng có môn giáo lí phải học thuộc rồi trả bài . Chắc là khó lắm hay sao mà cứ thấy chị càm ràm, bực bội lắm, có khi còn khóc nữa!!
Nhưng sau đó thấy chị cũng vui vẻ, hay về nhà quơ mấy cái áo đầm của 2 chị em (vì giống nhau) lên lớp tập múa. Có khi chị được đi cắm trại xa.(ở La vang)
Trong xóm, mấy bà mẹ thường ngồi trước nhà đan áo, chuyện trò râm ran.
Tớ và mấy bạn nhỏ cũng xin len vụn và mấy cây que đan nho nhỏ, tập đan, mới đầu mẹ dạy cách gầy mũi, rồi đan mũi xuống, mũi lên, chỉ chừng đó thôi mà đan một hồi, số mũi nó tăng hay giảm chứ không còn như lúc đầu nữa. lại tháo ra, đan lại.. cứ thế mà rất thích . Thích nhất là những sợi len có kim tuyến, nó óng ánh đẹp ghê!  nhưng đâu có nhiều, bọn tớ cứ nối những đoạn người lớn bỏ đi nên cái cục len có đủ thứ màu!

Đặc biệt tớ thấy ở đây người ta ăn ớt giỏi kinh khủng!
Mấy đứa con nít hay bưng chén cơm chạy lung tung, tớ nhìn thấy sao cơm thường có màu đỏ, thì ra tụi nó ăn cơm với xì dầu (ở đây gọi là vị tâm, bột ngọt là vị tinh) rắc thêm ớt bột! Sau đó tớ để ý nhà nào cũng có ớt bột nhiều, kho cá, nấu canh..đều bỏ ớt bột tạo thành màu đỏ rất bắt mắt (chứ không như bây giờ người ta xài màu điều) ra mấy tiêm tạp hoá cũng thấy bán nhiều xì dầu và ớt bột. Rồi dần dần tớ cũng tập ăn ớt cho đúng điệu!
 Tớ còn nhớ có  nhà hàng xóm làm bánh ướt, bán ở đâu không nhớ nhưng ở nhà chỉ còn 1 chị vừa xay bột vừa tráng bánh trên 1 cái lò lửa củi lớn. Tớ hay chạy qua giành xay bột, cái cối lớn có tay quay nối với 1 cái cần tre dài, đứng đẩy cái cần này cho cái cối quay chứ không phải ngồi quay tay như ta thường thấy ở những gia đình, cũng nặng nhọc lám nhưng tớ coi như trò chơi mà, mệt thì nghỉ, ngồi nhìn chị tráng bánh, (thích tráng lắm nhưng chuyện này coi bộ khó, tớ không dám thử) và dĩ nhiên là được ăn bánh vụn! Chị này vừa làm vừa kể chuyện cho tụi tớ nghe, thích lắm, chị còn hứa sẽ lấy đất sét nặn cho 1 cái cối xay để chơi. Tớ chờ mãi chả thấy đâu, nhắc hoài. Chị này bận lắm, hầu như đầu tắt mặt tối chả ngưng tay. (chị Thuỳ mới cho biết chị này tên Mít có bà mẹ ghẻ đi bán bánh ướt ) Bánh này người ta mua về rồi rắc tôm châý xong cuốn lại chứ không phải ăn như trong nam.
 Con nít xóm này khá đông nên vui lắm, không đi học thì chạy lông rông bày trò ra chơi đùa với nhau, nhà ai cũng mở cửa, đi qua đi lại tự nhiên (không có chuyện phải gõ cửa bấm chuông như giờ)

Không biết ở xóm đó bao lâu thì nhà tớ dọn tới 1 ngôi nhà rộng hơn, ngoài đường thông thoáng, tớ còn nhớ rõ số nhà 13 Phan Thanh Giản! con số này không bao giờ tớ quên được vì lúc dọn về rồi nghe hàng xóm xì xầm nhà này có ma! con nít nào chả sợ ma!
Ma đâu chưa thấy nhưng gần nhà có ông cụ tên Hường rất tử tế, 2 vợ chồng già, con cái ở xa, có bà con gái học ở Saigon chị Thuỳ nói bà này chấm nốt ruồi tùm lum trên mặt! (hồi đó có mốt nút ruồi như ca sĩ Minh Hiếu!)
Nhà cụ Hường có treo nhiều giò phong lan rất đẹp mà tớ chưa từng thấy ! nó là những khúc cây rồi đâm ra hoa chứ không trồng trong chậu nhỏ, ông cụ chăm sóc kỹ lắm. Ông cũng có nhiều chậu kiểng trước sân, có thứ ông gọi là long tu (râu rồng) và đem cho mẹ tớ 1 mớ bày nấu chè ăn mát lắm! Sau này vô Sg, nghe người ta gọi nó là cây nha đam, bây giờ thì thường gọi là cây lô hội.
Bây giờ cây này lên đời nỗi tiếng chứ lúc đó chả ai để ý.
Phía trước nhà tớ là chỗ trọ của 2 chú thông ngôn, tớ chả còn nhớ gì nhưng chị Thuỳ kể gần nhà có cô thợ may tên Hiền xinh xắn, người băc, mấy chú này cứ nhờ chị Thuỳ đưa thơ cho chị, xong chú cho ăn cà rem, chị mê cà rem nên tích cực lắm, cho đến một hôm nghe lóm mấy chú này cười đùa bàn tán với nhau rằng thợ may đạp máy may hoài chân to lám, tối nằm ngủ mà gác chân lên mình thì..nặng lắm!  Chị tớ nghe như vậy ghét quá không thèm làm nữa!  hihi...
 Bên hông nhà có cây  giáp cá và cây Dạ lý hương, đặc biệt cây này ban đêm toả mùi rất nồng nặc, chị Tâm nói nghe người ta bảo mùi này quyến rũ ma tới đó! nghe sợ lắm, mất ngủ mấy hôm! nhưng rồi cũng chả ai thấy con ma nào! mọi chuyện trở nên bình thường.
 Đặc biệt ở đây có nhiều cây sầu đông, nhưng người ta gọi là cây thầu đâu, hình như hoa nở vào mùa đông(?)  mùi cũng rất thơm và trái ra cả chùm, mỗi trái màu xanh, cứng to cỡ đầu ngón tay, hình tròn dài, trái này rất đắng nên chả làm gì ngoài làm đạn bắn nhau! (hồi đó cứ ước gì nó ăn được thì hay biết mấy vì rất nhiều!)
Trưa trưa, mấy chị người làm rủ nhau đem quần áo ra sông xả, sướng nhất là giặt chiếu vì cứ trải nó ra trên mặt nước rồi lấy bàn chải chà thoải mái chứ trong nhà chật chội khó làm. Hai chị em tớ cũng đi theo chị Tâm ra sông,(chờ cho 2 thằng nhóc ngủ chứ không nó đòi đi theo), chị giặt còn tụi tớ tắm, vui đùa với 1 đám con nít khác. Tụi con gái nói với nhau: mấy con chí sẽ trôi theo sông Thạch Hãn này ra tuốt ngoài biển luôn! rồi cả đám nhìn qua bên kia sông mơ một ngày có thể bơi qua thấu bên kia! (và đã không bao giờ có !)
Hồi đó có lẽ khí hậu ẩm thấp, đầu đứa nào cũng đầy chí, mẹ phải xịt thuốc rồi lấy khăn trùm lại cho nó chết, xong một lát mơí gội, cũng phải xổ sán lãi hoài, hồi đó có cái kẹo nhọn nhọn như bánh ú nhiều màu sắc ăn kèm với chuối rồi sáng dậy phải nhịn đói cho con sán chết. 

 Lại dọn nhà. Có người sang lại một chỗ trong cổ thành Đinh Công Tráng. Trong thành này có quân đội đóng và một ít nhà của gia đình quân nhân, chắc là ở khỏi tốn tiền thuê chứ  rất xa trường và chợ. Tớ chỉ còn nhớ  mang máng cái thành này có lớp tường cũng dày lắm, xung quanh có hào sâu, có nhiều cổng nhưng thường chỉ cho đi 1 cổng chính có lính gác. Gần chỗ nhà tớ ở có 1 trại gà không biết của ai nhưng mình có thể mua trứng. Trại gà này ngay 1 cái cổng thành khác, từ đây tớ có thể đi học gần hơn nhưng họ đóng lại không cho đi có lẽ vì an ninh.
Phía trong căn gia đình tớ là mấy căn nữa cũng của mấy người đồng đội của ba, mấy ông chồng thường vắng nhà, chỉ có mấy bà vợ và đám con nhỏ, mẹ tớ lớn hơn mấy cô kia, đa số họ có con chưa đến tuổi đi học. Cô Quýnh vừa sanh con, tối tối kêu chị Thuỳ qua ngủ cho đỡ buồn, tớ thì qua nhà cô Mạnh cũng chỉ có 2 mẹ con.
Trong thành buồn quá, chả có con nít bạn bè để chơi (toàn là mấy chú lính), đi học rất xa, mỗi sáng tớ phải dậy sớm rồi đi một mình, ớn nhất là phải băng qua mấy cái cây cổ thụ , trong thành này rất nhiều cây cối lâu năm, trúng những tháng mùa đông, sương mù dày đặc, không thấy rõ những con sâu gọi là sâu đo, tòn ten từ trên những cây này, lửng lơ trước mặt mình! nhiều sâu lắm, cứ căng mắt ra mà tránh chứ nếu không nó đo từ đầu tới chân là chết ngay! (là tớ nghe tụi bạn dặn thế).
Rồi tớ dành dụm được 2 đồng (?) trưa, đợi cả nhà ngủ, tớ lẳng lặng đi ra chợ xa mua 1 con búp bê hằng mơ ước, nó nhỏ chưa tới 1 tấc nhưng tay chân xoay được nên có thể may quần áo cho nó (nếu so với búp bê bây giờ thì nó như ..rác! con nít chả thèm đâu) Tớ hí hửng đem về đi xin vải vụn may áo cho nó, cứ trưa trưa là đem ra ngắm nhưng may váy thì dễ chứ áo thì không biết may! cái kéo thì chỉ cắt được giấy chứ vải cắt không đứt, khổ ghê! phải năn nỉ nhỏ bạn tên Oanh may giùm, nhà nó xa ơi là xa mà nó hay hẹn, thât lâu lắm mới có cái áo cho nó. (chị Thuỳ không chơi trò này, tớ chơi 1 mình và giấu kỹ lắm )
Rồi cũng có việc làm khỏi sợ nhàn cư vi..
Mấy bà nội trợ rủ nhau làm bột sắn giây, củ này còn gọi là sắn cơm, nghe nói rất khó trồng , trên Khe Sanh khí hậu lạnh ẩm mới có nhiều, nghe nói dùng nó rất tôt nên nhà nào nhà nấy mua về làm.
(sau 75, ngoài Bắc đem vô nhiều bột này nên bây giờ người ta đã biết dùng chứ hồi đó ít lắm)
Cứ rảnh là chị em tớ phải mài sắn, bàn mài tự làm băng cách lấy đinh lớn đục trên 1 tấm nhôm cho thành nhiều lỗ lởm chởm, mài mỏi tay mà lúc củ sắn gần hết thì tay dễ bị chạm vô bàn mài trầy tay đau lám. Sắn mài xong mẹ sẽ lọc qua nhièu lần rồi lấy bột đem phơi, mẻ tốt nhất gọi là bột nhất, mẻ sau không tốt bằng gọi là bột nhì...(phơi lâu lắm mới xong, chưa kể gặp trời mưa)
Hết sắn giây, lại đến mài củ mì (ở đó họ gọi là củ sắn), hết củ mì thì có củ huỳnh tinh (bột củ này làm bánh phục linh...mài triền miên..
Dạo đó đi đâu trong thành cũng thấy mấy cái nong phơi bột, mùi chua chua.(đất rộng tha hồ phơi!)
 Bột làm xong được gởi lên cho mấy ông chồng đang đóng đồn ở xa, tận biên giới Lào! Tớ còn nhớ như  in những cái địa danh như Lao Bảo, A Sao, A Lưới.. đó là những nơi rừng thiêng nước độc trên dãy Trường Sơn. Mẹ cũng thường làm thịt chà bông và đan găng tay, mũ thật dày vì ba nói trên đó lạnh lắm. Lúc đó khoảng đầu thập niên 60, mấy người anh em còn ở trong rừng sâu, chưa có vũ khí nặng nên chỉ lâu lâu mới làm một cú gây tiếng vang chứ chưa có ..mần ăn nhiều nên chiến tranh chưa có ác liệt như sau năm 68.(chưa biết mùi đau thương!)
Toàn cảnh thành Đinh Công Tráng, Sept 1967 - Photo by David Sciacchitano

(Mới tìm 1 ít thông tin về cái thành cổ này nhưng toàn là thông tin về trận đánh ác liệt năm 72. Hình ảnh cũ của nó không có, sau 72, nó chỉ còn là một nấm mồ tập thể chôn vùi biết bao người !)
Hơn hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch mùa "Hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn  )

 tấm hình này chụp 2007, có lẽ nó là cái cổng duy nhất còn sót lại.

Không biết được bao lâu thì lại dọn ra ngoài, nghe mẹ kể ông tướng Nguyễn Chánh Thi ra xem xét tình hình nói rằng trong thành mà tập trung như vậy nguy hiểm lắm! Tụi nó bắn vào là chết cả đám!
Lần này thuê nhà của bác Đoài(?) trên đường Quang Trung. Nhà bác này có đất rộng nên xây thêm 1 căn bên hông cho thuê, phía sau có mảnh đất rộng trồng đậu xanh, chuối..
2 thằng nhóc ở vườn sau nhà
Hai bác chủ nhà đã lớn tuổi có 3 người con gái: chị Thanh học lớp chị Thuỳ, kế là Thanh Hương học lớp tớ, em út là Hương Hoa nhỏ hơn 1,2 lớp (cứ lấy tên chị mà lót cho em)
Sau mới biết thêm còn có một anh lớn đang du học bên Mỹ (chắc anh này học giỏi lắm)
Nhà này rất ngoan đạo, tối nào cũng nghe đọc kinh, khỏi nói 3 chị em này đi nhà thờ thường xuyên và trong tuần có mấy buổi tới sinh hoạt ở đó theo đội gì đó tớ quên tên , đại khái như Gia đình phật tử bên chùa vậy!
Thế là từ đó, tớ có bạn kế bên, đi học chung nữa, thích lắm, không còn phải lo dậy sớm đi học và nhất là khỏi sợ..chết vì mấy con sâu đo!
Đến hè, qua nhà bà con của Hương Hoa học thêm, mấy nhà này thỉnh thoảng hay đánh bài, không phải bài Tây hay bài tứ sắc, tớ thấy lá bài lớn mà dài, có vẽ hình lạ lắm. con nít cũng hay ngồi coi người lớn chơi, không thì chơi ô làng, nhưng mê nhất là chơi đánh nẻ, hình như là 10 que tre (hay hơn?) chắc các bạn đều biết. Trò này mà có cái banh tennis là tuyệt nhất nhưng khó có lắm, phải chơi bằng viên bi hay banh của bóng bàn, chơi hoài "tay nghề " được nâng lên thấy rõ! đi học cũng đem theo chơi.
con đường trước nhà dẫn đến "vườn hoa"
Nhà không có giếng, thường thì chị Tâm phải đi xách nước ở một nhà trong xóm hơi xa dọc đường có nhiều tre rất mát, bọn tớ cũng đi theo và tập gánh (chỉ độ nửa thùng thôi) đau vai lắm! nhưng vui, cái giếng này cả xóm xài nên đó cũng là nơi tụ họp, nói chuyện như lúc trước đi giặt đồ bờ sông.

Vườn hoa
 Chiều chiều, người dân hay ra "vườn hoa" gần đó chơi, đó chỉ là 1 khoảng tam giác (tiểu đảo) nơi giao nhau của 2 con đường, chỉ thấy cỏ chứ chả có bông hoa gì! người lớn, con nít ngồi dọc theo cái bờ lề nói chuyện hóng mát rất vui (chắc là giờ đó không còn xe chạy)
Ở miền này có 1 thứ trái (dại?) mà tớ không còn thấy ở đâu có, nó nho nhỏ bằng đầu ngón tay, màu đỏ, chua chua, người ta gọi là trái dâu (nhưng không giống gì dâu ta hay dâu tây cả) người ta bán từng lon cho con nít ăn vặt như ở QN người ta bán chà là (dại) hay trái trâm vậy, tới mùa hè nhiều lắm, mấy bà rủ nhau mua về làm rượu, mẹ tớ cũng làm. gởi về QN cho bà con.
Hoa, Thùy, chị Tâm, Mỹ, Hương, bé?, Cường, Tuấn
.
 Hai nhỏ Hương và Hoa chơi với tớ cả ngày trừ những lúc tụi nó đi tới nhà thờ sinh hoạt, những lúc đó tớ buồn lắm, thấy trống trải quá và cứ mong tụi nó chóng về..riết rồi tớ đâm ra ghét nhà thờ luôn! mà hình như tụi nó không rủ đi hay mẹ tớ không cho nên tớ nhớ chưa có đi nhà thờ lần nào cả. Anh tụi nó có gởi về 3 cái áo đầm đẹp ác ! (áo Mỹ mà!) Tớ vẫn nhớ rất rõ áo chị Thanh màu thiên thanh, áo của Hương màu vàng có chấm trắng li ti (đẹp nhất) còn áo nhỏ Hoa màu hồng! (trong hình Hương và Hoa mặc 2 cái áo vía đó nhưng rất tiếc là không  có màu để thấy nó đẹp lộng lẫy!), tụi nó còn đem ra khoe một hôp bando cài tóc, nhiều màu lắm, nó cho tớ lựa màu nào cũng được nhưng màu trắng thì tụi nó không đụng tới, vì không được cài, như thế là đeo tang! (lúc đó tớ và tụi nó bàn tán, chắc bên Mỹ họ không kiêng sao mà làm bando màu trắng nhỉ!) anh nó cũng gởi về nhiều bong bóng, loại nho nhỏ, 3 đứa thổi đã đời, hết hơi! Đó là những thứ mang hơi hướng America đầu tiên tớ biết, dạo đó chỉ thỉnh thoảng thấy có 1 ông Mỹ dân sự phát kẹo cho con nít thôi, còn quân nhân thì không thấy, tớ chỉ thấy hình ba chụp chung với cố vấn Mỹ trên tiền đồn thôi!
 Có lần mọi người qua bên kia sông coi biểu diễn nhảy dù, Tướng Nguyễn Chánh Thi tổ chức cho dân chúng coi, tớ cũng đi cùng , coi thì cũng thú vị nhưng tới hồi kết thúc, trời nắng như đổ lửa, xung quanh là đồng trống, kiếm không ra miếng nước uống, đứa nào đứa nấy khát khô cổ, mệt đừ!!

  Thường hay có máy bay thả truyền đơn, con nít khoái lắm đi lượm về cả nắm..nhưng vui nhất là khi những đoàn Đại nhạc hội về trình diễn, ban ngày có những xe đi alo quảng cáo và phát những tờ chương trình in hình tài tử thấy mê! Chị Thùy kể có lần thấy ca sĩ Duy khánh và Thanh Thúy vì ông này có cha mẹ ở gần nhà số 13 PTG, chị nói Thanh Thúy đẹp ơi là đẹp, mái tóc dài  mặc áo dài tím. (ông này là cháu mấy đời của ông quan Nguyễn văn Tường). Tớ thì thích những hình có cô Kim Cương vì họ có in một hình viên kim cương lóng lánh.
Cái rạp xi nê hay chiếu phim Ấn Độ có mấy công chúa hát múa trên một cái lá sen to khổng lồ, con nít mê mẩn.. Khi có đoàn hát hay đoàn ca nhạc kịch gọi là đại nhạc hội (thường vào dịp xuân về họ làm "Cây mùa xuân" ) thì rạp tạm ngưng chiếu phim, khi nào mấy đoàn này đi thì mới chiếu lại. Chuyện giải trí chỉ có vậy, đêm đêm nghe radio có nhiều bài hát và đặc biệt lúc đó có chương trình quân đội : Tiếng nói Dạ Lan, nghe ngọt ngào lôi cuốn lắm!
  Có một sự kiện mà tớ không biết chính xác năm nào: sáng đó thấy ngoài đường xôn xao vui lắm, tớ chạy ra xem thì thấy nhiều chiếc xe đò treo banderole ở hai bên hông xe đại khái là đi ra cầu Hiền Lương trên sông Bến hải biểu tình, trên xe đầy người hát hò vui lắm, dân chúng 2 bên đường hoan hô! tớ lật đật chạy về nhà la lên, má ơi, đi ra Bến Hải chơi! không biết mẹ nói sao nhưng tớ nhớ là mình thất vọng ghê gớm vì không đi được! cứ nghe người lớn kháo nhau đủ chuyện về cây cầu đó nên tò mò lắm, nào là 2 anh lính gác cầu của hai bên chọc nhau, đùa với nhau v.v..
 Và một sự kiện nữa cũng không biết năm nào, chỉ nhớ là hôm đó nắng chang chang, người ta kêu con nít sắp hàng hai ở sân vận động, Mỹ sẽ phát quà! (tớ đoán chắc là ngày Quốc Khánh 4-7)
 Xếp hàng rồng rắn dài ơi là dài, trời nắng mà chờ mãi vẫn chưa tới lượt, mồ hôi mồ kê đổ, vừa khát nước vừa mỏi chân, muốn bỏ về cho rồi nhưng tiếc cái công xếp hàng cả buổi mà cũng ham "đồ Mỹ" nữa! vô được gần tới nơi thì thấy một ông Mỹ đang quậy nước cam trong cái thùng to như thùng phi, ông khác thì phát bánh hay xúc xích gì đó không nhớ nữa! lãnh được rồi hí hững lắm,  ra ngoài thấy mấy đứa con trai rủ nhau xếp hàng lần nữa!
  
La Vang
Dân chúng ở đây theo đạo khá nhiều, do lúc trước bị vua cấm đạo nên họ tụ tập vô đây, nhất là sau 54. Tớ cứ nghe mấy người ở nhà bác Đoài và chị em Hương Hoa nhắc đến Thánh Địa La Vang, nào là nơi đó linh thiêng lắm, đẹp lắm...tớ nghe và cứ tưởng tượng nơi đó là thiên đường vậy! rồi tớ nhớ có được tới nơi này một lần có lẽ là một dịp lễ lớn vì rất đông người hành hương. Bây giờ trong kí ức tớ chỉ còn nhớ là chỗ đó rộng lớn lắm, từ ngoài vô tới nhà thờ có rất nhiều tượng Thánh lớn (nói theo kiểu bây giờ là hoành tráng lắm!)
Rất tiếc là năm 72 nó cũng tan nát, tìm mấy hình cũ thì không có, chỉ có hình cảnh hiện nay hầu như đã được xây dựng lại mới hoàn toàn!và chỉ thấy những chậu cây kiểng chứ không có những tượng Thánh bề thế ngoài khuôn viên như trước.

( La Vang ngày nay là một thánh địa và là nơi hành hương quan trọng của người Công giáo Việt Nam, nằm ở huyện Hải Lăng, cách thị xã QT 4km về phía nam, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín hữu tin rằng, Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798 và một nhà thờ đã được xây dựng gần nơi 3 cây đa, nơi Đức Mẹ hiện ra. Thánh địa La Vang được Tòa thánh Vatican phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961
Nhà thờ LV 1967
Theo truyền khẩu, bắt đầu từ 1864, đã có 30 giáo dân Cổ Vưu tổ chức hành hương La Vang và những cuộc hành hương như thế diễn ra hằng năm với số giáo dân tham dự càng lúc càng đông biến cuộc hành hương La Vang cấp giáo xứ (Cổ Vưu) thành giáo hạt (Dinh Cát).
Từ khi nhà thờ ngói được dựng, hàng năm vào ngày 15 tháng 8 tại La Vang thường tổ chức lễ hội hành hương, gọi là "Kiệu" (cứ 3 năm lại có một "Kiệu" lớn, gọi là "Đại hội La Vang"). Người hành hương về nơi này có thể mua được lá cây vằng, một loại lá thường dùng sắc thuốc hoặc uống mát, lành và có khả năng kháng khuẩn, rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh nở. Không những thế, khách thập phương đến đây là để hành hương và cầu xin những ơn lành mà người Công giáo tin rằng Đức Bà sẽ ban ơn như ý.
Sau một thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương đã cho phép hành lễ tại đây trở lại. La Vang đã trở thành thánh địa hành hương quan trọng nhất của người Công giáo Việt Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người về hành hương, như năm 2008  Đại hội La Vang 29 sẽ vào năm 2011 (cứ 2 năm hành hương có 1 Đại hội).(theo internet)
Nhà thờ LV (67)

 Mùa hè, nắng gắt nhưng lúc đó thị xã có rất nhiều cây to, nhất là phượng nở hoa đỏ rực! bọn tớ cứ lấy hoa phượng làm đồ chơi, cánh nó ăn cũng chua chua, trái nó nằm trong 1 lớp vỏ dày dài, rất cứng, phải lấy búa đập ra (không biết để làm gì chứ ăn không được!) hình như đối với con nít, cái nóng không ảnh hưởng bằng cái lạnh thì phải, vẫn chạy nhảy vui đùa  thoải mái..
 Mùa đông thường mưa dầm dề, ẩm ướt, phơi đồ khó khô, đêm nằm ngủ lạnh lắm, hồi đó không có nệm, nhiều khi phải để 1 cái lò than đã vùi 1 lớp tro dưới giường cho ấm! Tớ và chị Thùy chia nhau bộ đồ dạ của lính Tây, đứa mặc áo, đứa cái quần, bên ngoài có mền mới chịu được! Mấy bà già thường có 1 cái giỏ mây nhỏ bỏ vừa 1 cái ơ nhỏ (bằng gốm) trong bỏ ít than hồng, xách theo bên mình nếu đi ra ngoài. Và ăn cay khi trời lạnh rất ngon! (kêu là lồng ấp?)
 Lúc này tớ đã thích đọc truyện rồi, có 1 nhà bạn gần đó có rất nhiều tryện tranh (loại rẻ tiền, giấy xấu ), tớ nhớ cả bọn nằm lăn trên gác đọc say xưa, nhưng đọc rồi cũng hết, ở nhà cũng có nhiều sách của ba nhưng tớ chưa đọc được (ba hay mua đem lên đơn vị xem chứ ở trên đó ngoài cái radio thì chả còn gì để giải khuây!)
 Có 1 tiệm sách tên Phổ Thông, bọn tớ hay đến mua ngòi viết, mực, vở...ở đây có bán nhiều truyện cổ tích rất hấp dẫn, sách in trên giấy tốt, bìa vẽ tranh rất đẹp, đứa nào cũng thèm , chủ tiệm là 2 chị em, cô chị rất đễ thương (bán 1 đồng 3 ngòi viết) còn cô em , tớ còn nhớ tên Vân, mập và ..không dễ thương  (chỉ bán đúng 2 ngòi viết thôi!) nên chị em tớ cứ thấy cô chị bán mới vô mua . Cứ lân la tới hoài rồi cô chị cũng cho chị em tớ xem mấy cuốn truyện cổ tích đó, đó là những tryên cổ tích của nước ngoài, dịch từ tiếng Pháp, hình ảnh rất đẹp, nào là Cô bé lọ lem, Bạch Tuyết, Công chúa da lừa...cứ trưa trưa bỏ ngủ trưa tới tiệm coi "cọp" (dĩ nhiên là nếu lúc đó không có cô Vân coi tiệm!)
 Gần đó có 1 chú chuyên khắc tên trên viết máy, khắc thủ công chứ không có máy móc gì như tiệm Đại Chúng ở QN, cả bọn hay ghé xem chú làm, say mê, nhưng chỉ xem chứ lúc đó chưa đứa nào có viết máy,  (hình như lên trung học mới xài viết máy) vẫn xài viết chấm mực, phải có giấy thấm hay viên phấn để chậm cho khỏi lem.
 Thời đó có những sách giáo khoa như sách sử ký và thủ công in trên giấy và bìa rất tốt vì do "Nhân dân Hoa kỳ tặng" những sách này hình màu rực rỡ chứ sách của Vn giấy xấu và thời đó in ấn còn thô sơ, làm gì có hình màu! Sách giáo khoa nhưng cũng có rất nhiều truyện cổ tích VN như Hoàng tử sọ dừa, Tấm cám...đọc say mê! (đỡ dang nắng)
 Đầu năm học mà kiếm được mấy cuốn Thế giới tự do để bao vở là mừng lắm, tạp chí này của phòng thông tin HK phát không cho nhân dân VN nhưng mấy ông công chức thường ếm bớt nên dân chúng đâu có nhiều!

 Đó là mùa nắng, tới mùa mưa đi học cũng mệt nếu ta bị ..rách áo mưa! hồi đó áo mưa không được tốt, cứ hay bị rách và chắc cũng không rẻ nên có cái nghề vá áo mưa , rách đâu thì vá đó, ông thợ lấy cái bàn ủi bằng than ủi lên thì phải! Tớ nhớ chuyện này vì hồi đó trong lớp có chị lớp phó có cha làm nghề này. Trưởng lớp tên Thìn (chắc là tuổi thìn) và phó tên Xuân, các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết đó là Xuân (Sông trăng ) đó! Hai chị này có vẻ lớn hơn bạn bè trong lớp chắc là đi học trễ.
 Những năm nhà tớ ở QT thì không có trận bão hay lụt nào lớn, chỉ có ít lần mưa nhiều, đi học về cứ sợ lọt xuống mấy cái mương hay hố hai bên đường vì nước ngập hết không còn thấy được trừ những chỗ có xoáy nước lớn thì biết là chỗ sâu! Bão thì được nghỉ học, ở nhà nhìn ra cánh đồng xa xa thấy người ta chèo thuyền trên những chỗ là đám ruộng, con nít chưa biết gì, chỉ thấy nghỉ học là khoái thôi, nhất là sau đó hết bão, chạy ra đường, chỗ những cây phượng cổ thụ bị bật gốc, lượm trái của nó về chơi, bình thường cao quá đâu ai hái được!
Tớ cũng kiếm nylon lấy kim chỉ, mày mò may 1 cái túi 2 ngăn, có thể gấp lại để đựng sách vở cho khỏi ướt! Giờ nữ công cô đã dạy mấy mũi can bản rồi. Đan thì tớ đã "lên hạng " rồi, đã đan được foulard để quàng cổ cho ấm, foulard nhiều kiểu đẹp lắm, cứ thấy bạn nào có kiểu lạ là tớ mượn về nói mẹ bày đan! áo thì chỉ đan phụ mẹ mấy mũi thường thôi chứ chưa biết bớt nách hay viền cổ..
lúc này có nhiều mốt mới lắm, mấy bà nội trợ cứ trao đổi kiểu áo len và bắt đầu thấy có loại len to đan bằng que tre to rất mau, loại này để đan áo cho đàn ông mới hạp.
 Ở trường mấy cô giáo cũng đem theo đồ đan, giờ ra chơi hay khi cả lớp làm bài tập, cô lại đan.
 Năm lớp nhì (lớp 4) tớ học với cô Lê thị Tin Kính, mấy năm trước nghe tiếng cô này nghiêm nên ớn lắm, hình như chỉ có cô là còn độc thân, tóc thắt bím, mặt ..chả hiền tí nào!
Thật ra cô chỉ nghiêm nghị vậy thôi chứ cô dạy rất hay và tận tuỵ với học trò, tụi tớ nhanh chóng mến cô, lúc đó có lẽ cô cũng chỉ mới chừng dưới 25 tuổi nhưng đã có nhiều tiếng xì xào cho rằng cô kén quá nên ..ế! Có dạo phòng ốc sao đó, lớp tớ phải học tạm một phòng ở bên ngoài (?) nên không đóng cửa lớp được hay sao đó mà có người để một bức thư trên bàn giáo viên, cô vô lớp đọc xong, thấy cô nghiêm mặt lại có vẻ giận lắm và dặn cả lớp lần sau phải vất những thứ đó đi! tớ đoán chắc có mấy anh chàng rỗi hơi chọc ghẹo cô thôi!
 Bạn bè trong lớp tớ chỉ còn nhớ có bạn thân tên Yến và một bạn mới về đây thì phải, tên Quỳnh Như, ba bạn này chắc là công chức cao cấp vì thấy nhà bạn là một căn nhà Tây của chính phủ cấp (như nhà DT vậy), bạn này có nhiều chị em gái mà người nào cũng lót chữ Quỳnh, tớ thích nhỏ này vì bạn rất dạn dĩ, ăn nói hoạt bát (chứ không rụt rè như phần lớn con gái nhỏ) và nhất là bạn đi xe đạp mà có thể thả tay, vừa nói chuyện, vừa vung tay diễn tả rất chì!!
 Trung thu, trường bắt mỗi học sinh phải làm một cái lồng đèn và lớp tập văn nghệ để ra sân vận động có tổ chức đón trung thu, có chấm điểm. Lúc đó tớ cứ ước gì mình có anh để làm lồng đèn cho tớ! nhưng rồi cả bọn cũng đi kiếm tre, về chẻ, vót lui cui làm lồng đèn ngôi sao, hồi đó chỉ có đèn kiểu này chứ làm gì có lồng đèn đủ kiểu như trong Chợ lớn làm bán. Ngôi sao thì đứa nào cũng giống nhau thôi, chỉ ăn thua là trang hoàng dán giấy lên sao cho độc đáo thôi! 
Tối đó đứa nào cũng diện áo đẹp nhất, cầm cái đèn lên tới nơi tập trung rồi mới thắp nến lên, đông vui khỏi nói, cái đèn của tớ nó chìm lỉm giữa một rừng đèn to, đẹp lộng lẫy! nhưng mà cũng không buồn gì vì mình cũng có được cái đèn sau cả tuần cặm cụi ..

 Mẹ đang có bầu em Quảng thì ông Ngoại bị xe tải tông ở QN, dì ba biết mẹ có bầu nên dấu không cho biết nhưng ông nội ra báo tin cho mẹ về thăm chứ ông Ngoại bị nặng sợ không qua khỏi. Chị Thuỳ mới 11 tuổi nhưng biết đi xe đò một mình vô Huế nhờ người bà con mua vé máy bay đi Quy Nhơn, đường sắt bị đặt mìn phá hoại tê liệt đã lâu, xe đò cũng nguy hiểm, chắc là vé máy bay cũng khó có liền! ( mẹ kể lúc đó bụng khá bự mà còn mang theo 12kg bột sắn và một bình lớn rượu dâu về làm quà nhưng ở Qn chưa ai biết xài bột này!) Chỉ có mấy người Bắc mới biết "cái quý giá" của nó!!
Xem em bé
 Sau đó chị Thuỳ kể là sáng hôm sau chị phải thi vô Đệ thất mà tối đó mẹ đau bụng, chị phải theo mẹ vô BV, sáng lật đật chạy về đi thi mà cứ nghĩ chắc phen này rớt quá! ngày có kết quả, người coi đông quá, chị ráng chen vô, rớt chiếc dép mới và thấy có tên, thứ 58, chị mừng quá, chạy về bỏ chiếc dép luôn! Hôm sau ba về thưởng chị chầu kem.
 Thời đó trừ Saigon ra, còn mỗi thị xã chỉ có 1, 2 trường trung học công lập và được đặt tên không trùng nhau nên chỉ nghe tên là có thể biêt là trường đó ở đâu như Thị xã Quảng trị là trường Nguyễn Hoàng, Huế có trường Quốc học (nam) và Đồng Khánh (nữ), Đà Nẵng: Phan chu Trinh, Quảng Ngãi: Trần Q Tuấn, Quy Nhơn :Cường Để, Nha Trang: Võ Tánh....
Mỗi nơi cũng có một con đường chính (phố chính) như ở Quy Nhơn là đường Gia Long.. Ở Quảng Tri và Huế là đường Trần Hưng Đạo. 
Chị Thuỳ có bạn là chị Thuỷ có cửa tiệm ở đường THĐ và một chị rất thân tên Cúc có tiệm sách. Tớ thích và ước ao mai mốt nhà mình mở tiêm sách, tha hồ đọc.


Nói chuyện sách tớ nhớ có thấy ba đem về một quyển có vẻ hơi lớn và giấy đẹp hơn mấy cuốn khác đó là cuốn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, tớ mở xem thì thấy trang đầu có giòng chữ rất đẹp: 
               Người đi một nữa hồn tôi mất
              Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ
 Có ký tên chủ nhân là Nguyễn Hữu Bài, tớ thắc mắc ghê lắm, không hiểu gì nhưng đoán chú này chắc có tâm sự buồn! Hai câu thơ của Hàn mặc Tử này nghe cứ buồn man mác!
Sau này nghe mẹ kể là chú Bài thất tình sao đó, rồi bịnh, đã đào ngũ rồi! ba giữ sách này làm kỷ niệm. Sau 75 cuốn này không còn, không biết nó đang lưu lạc chốn nào hay đã bị làm giấy gói xôi, gói bánh mì! nhiều khi tớ tưởng tượng cuốn sách này bị đem bán ve chai và có người quen hay con cháu chú Bài thấy được và  nó được tái ngộ chủ nhân! (như nhật kí ĐTT vậy mà). Dù gì, khi nhớ đến chuyện này, lòng cứ buâng khuâng!
  Ở QT lúc đó chỉ có 1 tiệm thuốc tây của 1 ông Tây (có vợ Việt) làm chủ . Sau đó nghe tin ông này bị Vc giết khi đi về Khe Sanh, có lẽ họ tưởng ông là người Mỹ chăng!? Dân chúng xôn xao vụ này dữ lắm, còn tớ, cứ chạy qua lại ngang nhà riêng của ông này để "xem xét tình hình!"
 Năm 63, ở Huế rất lộn xộn nhưng ở QT theo như tớ nhớ thì hình như không có biến động gì, dân ở đây theo công giáo nhiều,  chỉ có vài ngày giới nghiêm rồi sau đó sau cuộc đảo chánh mọi sự trở lại bình thường, chỉ thay Tỉnh trưởng thì phải!?

 Rồi ba nói cả nhà dọn vô Huế, lúc này đã là năm 1964 rồi.
 Hình như Tiểu đoàn của ba dời vô trong hay sao đó, đang giữa năm học, tớ đang học lớp Nhì còn chị Thuỳ học lớp Đệ Thất trường Nguyễn Hoàng, cả nhà đi, chị Thuỳ phải ở lại học cho hết niên khoá, chị ở trọ nhà chị Thuỷ, thỉnh thoảng đi xe đò về nhà. 
Tớ phải nói lời chia tay với bạn bè trong lớp, buồn lắm nhưng không có lưu bút hay hình ảnh gì để làm kỷ niệm cả, cũng không biết hỏi địa chỉ để liên lạc nên từ đó tớ ..đứt đường tơ! Trừ bạn Xuân sau này gặp lại ở Quy Nhơn.
Cô Kính buồn lắm, cô tới nhà cho mẹ địa chỉ của cô, dặn khi nào ổn định mẹ nhớ gởi thơ cho cô biết địa chỉ ở Huế, cô hay vô Huế thăm bà con sẽ ghé nhà. Và cô có tới nhà thăm thiệt! lúc này tớ mới biết cô thương tớ lắm nhưng ngoài mặt thì vẫn như không!
 Đến bây giờ tớ vẫn hình dung ra cô với 2 bím tóc thắt con rít dài, gương mặt nghiêm nghi.Chắc sau này cô vô Huế, tớ mất liên lạc khi về QN vì mẹ không  viết thư cho cô nữa. 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 Chuyện bên lề
Một vài thông tin về các địa danh đã ăn sâu vào đầu tớ

Lao Bảo (hiện nay)thị trấn nhỏ thuộc huyện biên giới Hướng Hóa, phía Tây của tỉnh Quảng Trị. Từ thị xã Đông Hà theo đường Quốc Lộ 9A đi về hướng Nam Lào khoảng hơn 80 km sẽ đến Lao Bảo. Đây là một thị trấn tương đối sầm uất nhờ mậu dịch biên giới. Đây là một điểm quan trọng trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Lao Bảo có dân số trên 30.000 người.( những năm 80, đây là điểm hàng lậu ồ ạt vào Vn từ Lào)
  Thung lũng A sao (A shau, a sầu) Khu căn cứ quân sự này đóng chốt bên một cửa ngõ của đường mòn Hồ Chí Minh, cạnh biên giới Lào, bao bọc chung quanh là các căn cứ cách mạng của Khu ủy Trị Thiên, các bản làng của đồng bào các dân tộc Kơ Tu, Pa Kô... nằm khuất dưới tán những khu rừng già.
A Lưới là một huyện miền núi biên giới của tỉnh Thừa Thiên-Huế, tiếp giáp với Lào ở phía Tây.
Về mặt giao thông, nó được nối với thành phố Huế bằng quốc lộ 49, là một quốc lộ rất hiểm trở có ba đèo cao và vực sâu, trong đó đèo Kim Quy dài 16 km.
A Lưới là mảnh đất có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như: Tà Ôi, Vân Kiều, Cơ Tu, Hoa...
Các địa danh được biết đến ở A Lưới trong Chiến tranh Việt Nam gồm: đèo Mẹ Ơi, suối Máu, đồi A Bia (người Mỹ gọi là Hamburger Hill - đồi Thịt Băm, nơi xảy ra trận Đồi Thịt Băm)...
Dưới đây là lời của 1 bộ đội BV đã đóng quân ở đó:
 "Những khu rừng có hệ sinh thái ba tầng ấy chính là nơi chúng tôi đã sống thời chiến tranh, trong căn cứ của chiến khu A Lưới, đóng dưới tán những cây kiền kiền, chó, sao... cao ngút trời. 2/3 những cánh rừng nguyên sinh ấy đã bị tiêu hủy không còn dấu vết do bom đạn, nhất là chất độc da cam "

  Nói đến "Mùa hè đỏ lửa " Quảng Tri gắn với cái "Đại lộ kinh hoàng", có nhiều thông tin về vụ này trên net, ví dụ Ở đây

Noel 72, TT Thiệu khóc tại nhà thờ LV đổ nát
    ".. miền Bắc đã huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này. Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy là những thanh niên ưu tú từ 30 trường đại học - cao đẳng của Hà Nội: gần 10.000 sinh viên và cả giảng viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam ghi rằng quê quán: Hà Nội - Năm sinh 1954 hay 1955."

 Thị xã QT, sau 72 đã thành bình địa không còn ai, bây giờ, thị xã Đông Hà là tỉnh lỵ.
 Vùng này hứng chịu nhiều bom đạn mất mát, đến giờ vẫn còn bom mìn sót lại, khí hậu thì khắc nghiệt, rừng bị tàn phá nhiều nên bão lũ triền miên..

..Vào mùa hè, mùa gió Lào (gió Foehn) khô khốc rát bỏng, cây cối héo khô, mùa mưa thì mưa dầm dề lạnh cóng..nên người ta mới gọi là nắng lửa mưa dầu, điều này càng tệ hơn khi rừng phía tây bị tàn phá nặng nề
 Mới biết thêm là sau biến cố 72, trường trung học NH cũng dời vào Đà nẵng, chắc dân chúng cũng tứ tán khắp nơi. Mới đây trong 1 lần đi Phan Rang dự đám cưới, chị Thuỳ khám phá ra rất nhiều người QT vô đây, họ nói năm 72,  Cha nhà thờ dẫn họ đạọ vào đây nương náu, hiện giờ đã hình thành một giáo xứ rất đông!


"Bây giờ cái tên Quảng Trị trở thành thương hiệu rồi, ngoài Nghĩa trang Quảng Trị, gió Lào Quảng Trị, bão Quảng Trị, lụt Quảng Trị... còn có Phân bón Bình Điền Quảng Trị, rượu Xika Quảng Trị, nuôi tôm sú vùng cát Quảng Trị, hồ tiêu Quảng Trị, đất học Quảng Trị, nhà báo Quảng Trị, ca sĩ Quảng Trị, đạo diễn Quảng Trị, Cửa Việt Quảng Trị, Cửa Tùng Quảng Trị, Cồn Cỏ Quảng Trị, hàng rào Mắc na ma ra Quảng Trị..".(copy trích đoạn 1 trang web của QT)
   
Đêm thương nhớ nhiều những kỷ niệm xưa
Sao vương vấn hoài tháng ngày tuổi ấu thơ.
Con sông nhỏ một thời tắm mát ơ ..... 

Những câu thơ trong 1 bài thơ viết về quê hương QT của nhà thơ Tạ Nghi Lễ, mới được biết ông này học trên chị Thuỳ 1 lớp và đang viết về những hồi ức ấu thơ thì đã đột ngột qua đời năm 2008! Tiếc thật! 
 VỀ
( Nhớ về Quảng trị) Thơ Tạ Nghi Lễ
Xin tạ lỗi cùng quê hương

Hai mươi năm chưa hề trở lại
Nợ áo cơm, dặm đường xa ngái
Lòng hẹn lòng tôi nhé,về quê


Tôi sẽ về tìm lại ấu thơ

Con sông nhỏ một thời tắm mát
Chiều thị xã, hương sầu đông thơm ngát
Tiếng ve khô cong ngọn gió Nam Lào


Tôi sẽ ngược đường Chín

Từ Đông hà ,Mộc Đức, Lâm Lang
Phiên chợ huyện, ngày xưa Cam Lộ
Ấu thơ tôi mê mãi đi tìm


Tôi sẽ xuôi  dòng sông Hiếu

Về Lâm Xuân, Nhĩ Hạ, Gio Linh
Đêm sóng biển , rạt rào bất tận
Não lòng người "..Ăn nửa trái sim ''


Tôi về với trăng đêm cầu An Lạc

Mối tình đầu tôi đã đánh rơi
Em giờ cuối chân trời trôi dạt
Trong đục nào, em chạnh nhớ đến tôi


Tôi sẽ về ăn nem chợ Sãi

Món quê hương thèm đến nao lòng
Mùa lũ lụt, hương rằm tháng bảy
Thạch Hãn đôi bờ ,sóng nước mênh mông


Tôi sẽ về ngã ba Long Hưng

Trăng mát lạnh một trời tỉnh lỵ
Tôi, chú bé, ngày xưa trọ học
Phượng rụng vai người xao xác mùa thi


Tôi sẽ về La Vang

Nghe chuông đổ đôi bờ nhật nguyệt
Tiếng cầu kinh trầm buồn tha thiết
Ai như tôi , đi giữa cõi vô cùng


Tôi sẽ về thăm

Về thăm tất cả
Từ bờ tre, giếng nước, ao làng
Ai cũng có một thời tâm tưởng
Suối nguồn nào cũng trở lại với dòng sông

                                    1995

................................................
Đọc bài thơ này, nhớ nhiều thứ, cây sầu đông..

 

10 nhận xét:

  1. Nhỏ Mỹ ui,
    Đó là trái dâu tằm. Cây dâu được trồng để hái lá cho tằm ăn. Ở Đà Lạt trái dâu tằm lớn hơn, còn ở miền trung mình trái dâu tằm nhỏ. Nhà mình có nuôi tằm và trồng nhiều cây dâu nên mình cũng hay hái ăn.
    Đời công chức đổi nhà liên tục nên con cái được đi đây đi đó, trải nghiệm nhiều cuộc sống khác nhau cũng thú vị.
    Những kỷ niệm thật dễ thương!

    Trả lờiXóa
  2. Đúng là dâu tằm chị 10 ơi, mới hỏi mẹ cũng nói như vậy!
    Lúc còn nhỏ mà di chuyển nhiều không hay đâu, phải thích nghi với chỗ mới, học hành bị ảnh hưởng và nhất là tình cảm, phải chia tay bạn bè xóm giềng cũng buồn lắm chứ!!

    Trả lờiXóa
  3. Phục cô Ba sát đất , chuyện từ hồi còn nhỏ mà đến giờ vẫn còn nhớ qúa rõ như vậy , riệng chín chỉ còn nhớ mang máng vài chi tiết thôi , nhưng có một điều lạ là Chín lại chỉ nhớ vào khoảng tuổi học lớp nhỏ (lớp ba, lớp nhì ,đẵc biệt là lớp nhất thôi )còn vào tuổi của lớp Đệ thất đến đệ tứ thì chẳng nhớ gì nhiều ( hay là đoạn phim trong thời gian đó ở trong óc của Chín đã bị hư chăng ???). Nhìn những hình của cô ba lúc nhỏ rất là dễ thương vừa nhìn là nhận ra liền .

    Trả lờiXóa
  4. Chị Thuỳ thật gan dạ , mới 11 tuổi mà đã làm được những việc như vậy , đáng phục .

    Trả lờiXóa
  5. Chị cũng phục cô Ba sát đất về trí nhớ. Bây giờ những chuyện mới đây còn quên bén, tệ thiệt!
    Hồi xưa nhà chị cũng có cây sầu đông, ở Bình Định gọi là cây thầu đâu. Hoa nó rất xinh, trái từng chùm, tròn như quả trứng xanh láng bóng. Chơi trò mua bán thường làm trứng luộc. Lá của nó dùng để dú chuối hay xòai cho mau chín. Cứ xếp một lớp trái cây thì ủ trên một lớp lá. Trái mau chín và rất tươi.
    Nhìn cô Ba hồi nhỏ dễ thương ghê!

    Trả lờiXóa
  6. Cây Sầu Đông hay cây Thầu Đâu của Nẫu BK đây ta nhớ lúc ở Đà Nẵng trong sân nhà có 1 cây mà lại gọi là cây Soan " không biết bài hát Hoa Soan bên thềm cũ có dính dáng gì đến cây này không ? " chứ thuở đó thì BK đã biết cạy cục nhựa nó bỏ vào chai rồi đổ nước vào ngâm để làm keo dán rồi thì cái gốc cây đó là chỗ để thắng cái xe đạp đòn ngang của ông bố khi mà đã đi xe vững rồi thì ta leo lên yên đạp cho sướng thân khỏi phải chui người ngang qua cái khung nhưng muốn xuống thì chân không tới nên cái gốc cây Soan là chỗ lý tưởng để thắng lại và leo xuống xe.

    Trả lờiXóa
  7. À! Bk nói mới nhớ cái chi tiết này, tớ cũng hay lấy nhựa nó làm keo dán. Ngoài Bắc gọi nó là cây soan. Còn soan tây là gì o biết?

    Trả lờiXóa
  8. Á À ! Soan Tây thì phải hỏi bố tớ nhưng có lẽ nó là cây hoa Phượng trong Nam vì tớ nhớ lúc xưa ông có mua mấy bức tranh treo tường trong đó có bức vẽ hồ Hoàn Kiếm với cây hoa đỏ mà ông gọi là hoa Soan Tây , nghe thì nghe mà không hỏi ngọn ngành nên đến giờ cũng không biết chắc nên đoán vậy thôi .

    Trả lờiXóa
  9. Đây, mới thấy 1 bài về cây xoan đây (xoan chứ không phải soan!)
    ..Người Việt Nam mình hay cho thêm hoặc chữ “ tây”, hoặc chữ “ta” vào tên gọi đồ ăn, thức uống, nhiều vật dụng sinh họat hàng ngày…và cả vào tên hoa lá để phân biệt chủng lọai. Thông thường, vật có tên gọi với chữ ta nhỏ bé hơn vật có tên gọi với chữ tây! Bởi thế nên cây “xoan ta” và cây “ xoan tây” quả có “hai phương trời cách biệt “. Hoa xoan tây là hoa phượng đỏ :

    Từ buổi chàng xa non nước này
    Em buồn ngày có tới đêm nay
    Xoan tây trước bến hai lần đỏ
    Lệ nhỏ hai lần, chàng có hay- Lưu Trọng Lư

    Hoa xoan ta là hoa sầu đông:

    Trong khi người miền Bắc gọi sầu đông là xoan ta, thì người miền Trung gọi sầu đông là thầu đâu, do đó dễ bị lầm lẫn với cây sầu đâu- Là một lọai cây có rất nhiều ở miền Nam , ở các tỉnh giáp giới Campuchia như An giang, Châu đốc. Trong khi hoa sầu đâu ( màu trắng ) và lá non được dùng làm gỏi, gọi là gỏi sầu đâu thì hoa và lá sầu đông( xoan ta) độc, không ăn được vì vị đắng, lại có chất độc, có thể dùng diệt sâu. Chắc vì vậy mà gốc xoan không bị mọt, nên gỗ xoan được ngâm nước dùng làm giường ngũ, làm nhà: cột cái, cột con, quán gánh, cây đầu, đòn tay … Người xưa có câu: ” Lấy vợ đàn bà, làm nhà gỗ xoan “. Gỗ xoan có hai lọai: xoan trắng và xoan đào, xoan trắng dẻo hơn xoan đào, nhưng vân gỗ xoan đào lại đẹp hơn

    Trả lờiXóa
  10. Hú hồn! xém nữa là tớ chít rồi nha!
    thấy trên TV dạy làm gỏi bằng đọt sầu đâu, cứ tưởng cây này mà sao ăn được! hèn chi!

    Trả lờiXóa